Thứ Tư, 14 tháng 8, 2013

SEO là gì ?

SEO » SEO Là Gì
Rất nhiều người thắc mắc SEO là gì, rất nhiều người truy cập vào Google tìm kiếm với cụm từ seo la gi, vậy rốt cuộc SEO là gì?LINH QUÂN  cung cấp cho các bạn 4 định nghĩa từ 4 nguồn khác nhau và bạn hãy trải nghiệm theo cách mình cho là đúng nhất.


SEO là gì theo định nghĩa của chính Google

Chúng tôi trích đăng nguyên văn

"SEO is an acronym for "search engine optimization" or "search engine optimizer." Deciding to hire an SEO is a big decision that can potentially improve your site and save time, but you can also risk damage to your site and reputation. Make sure to research the potential advantages as well as the damage that an irresponsible SEO can do to your site."

Bạn có thể tham khảo chi tiết tại http://www.google.com/support/webmasters/bin/answer.py?hl=en&answer=35291

SEO là gì theo định nghĩa từ Bách khoa Toàn thư mở WIKIPEDIA

Tối ưu hóa công cụ tìm kiếm, hay SEO (viết tắt của search engine optimization) là quá trình tối ưu nội dung text và định dạng website (hay cấu trúc) để các công cụ tìm kiếm chọn lựa trang web phù hợp nhất phục vụ người tìm kiếm trên Internet. Đơn giản hơn có thể hiểu SEO là một tập hợp các phương pháp nhằm đưa website lên vị trí TOP 10 (trang đầu tiên) trong các trang kết quả của các công cụ tìm kiếm.

Tham khảo chi tiết tại http://vi.wikipedia.org/wiki/SEO

SEO là gì định nghĩa theo cách "bình dân"

Google tại Việt Nam quá phổ biến, khi muốn tìm thông tin gì đó việc đầu tiên là anh ta truy cập vào Google và nhập vào cụm từ muốn tìm kiếm. Từ đó, làm sao khi người duyệt web nhập vào một cụm từ có liên quan đến lĩnh vực, sản phẩm hay dịch vụ và Google trả về kết quả có website của họ trên trang nhất gọi là SEO.

Và ...

SEO là gì theo cách định nghĩa của riêng CTIT


1. Xu hướng sử dụng đường truyền Internet tốc độ cao
Bạn có biết đến thời điểm bạn đọc bài viết này thì tại Việt Nam đã có gần 40 triệu người sử dụng đường truyền Internet tốc độ cao (ADSL) và có số này đang tăng lên từng ngày, từng giờ.

2. Xu hướng Google
Google đã trở thành động từ. Bạn có bao giờ hỏi một người bên cạnh mình về vấn đề gì đó, anh ta quay lại bảo bạn "Google đi!".

3. Xu hướng mua sắm trực tuyến
Đã có một sự chuyển dịch rất lớn đặc biệt trong giới trẻ Việt Nam, khi họ muốn tìm một công ty nào, khi họ muốn mua một sản phẩm gì hay họ muốn sử dụng một dịch vụ nào đó đã không còn cái việc chạy khắp nơi đến các công ty, đi khảo sát từng cửa hàng hay phải lang thang trên nhiều quầy hàng trong các siêu thị để lựa chọn. Họ lên mạng, tìm thông tin liên quan đến nhu cầu của họ, chọn lựa và đặt hàng. Sản phẩm sẽ được mang đến tận nơi hoặc sẽ có người tư vấn tận nhà trong khi họ vẫn ung dung làm một việc khác.

Từ 3 xu hướng nói trên, bạn thấy một điều rất rõ là bạn có một lượng khách hàng tiềm năng cực kỳ lớn và lượng khách hàng tiềm năng này còn là khách hàng mục tiêu của bạn vì chỉ khi họ cần biết thông tin, họ cần mua sắm hay sử dụng dịch vụ thì họ mới tìm chính xác những từ ngữ có liên quan ở các công cụ tìm kiếm, đặc biệt là Google.

Dĩ nhiên CTIT sẽ làm SEO theo đúng như các chỉ dẫn của công cụ tìm kiếm để khi người duyệt web gõ vào những từ khóa phù hợp sẽ trả về kết quả có website của bạn trên trang nhất. Nhưng đó mới chỉ là phần đầu của câu chuyện SEO là gì của CTIT.

Phần 2 của câu chuyện này là giải quyết việc khi bạn nằm trên trang nhất thì liệu những khách hàng mục tiêu nói trên có click chuột vào website của bạn hay họ click chuột vào một trong 9 website cùng nằm trên trang nhất giống như bạn.

Chúng tôi không quên phần kết của một câu chuyện có hậu. Vâng, câu chuyện SEO là gì thực sự có hậu khi người ta biết đến bạn, click chuột vào "thăm bạn" và từ đó họ sẽ liên hệ hoặc mua hàng từ website của bạn.

Và đó là định nghĩa SEO là gì của riêng CTIT.

Bạn có muốn cùng chúng tôi tạo nên một câu chuyện thật hay và kết thúc thật ngọt ngào? Hãy xem Giải pháp SEO trọn gói của chúng tôi.

Kinh tế chững lại, dân Việt lại rượu bia nhiều hơn?

Giữa lúc mỗi tháng có hàng nghìn doanh nghiệp phải đóng cửa, các nhà sản xuất trì trệ do bế tắc thị trường đầu ra thì ngành đồ uống bia - rượu - giải khát vẫn tăng trưởng đột phá. Riêng 6 tháng, ngành nước giải khát đã tăng trưởng 20%.


Việc chuyển giá, trốn thuế của các "ông lớn" FDI trong lĩnh vực đồ uống đang làm khó doanh nghiệp nội.

Theo thông tin được ông, Nguyễn Văn Việt, Chủ tịch Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam (VBA) đưa ra tại Hội nghị Thường vụ mở rộng sơ kết 6 tháng đầu năm 2013 và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2013, trong nửa đầu năm, ngành bia - rượu - giải khát Việt Nam đã đạt chỉ số tăng trưởng 10,5% so với cùng kỳ  (7 tháng là 9,1%).

Cụ thể, sản lượng toàn ngành bia trong 6 tháng đạt 1.373,1 triệu lít, bằng 47,3% kế hoạch năm, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm ngoái, 7 tháng là 1.603,6 triệu lít, tăng 8,9% so với cùng kỳ. 
Mức này cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Theo đó, toàn ngành chỉ tăng 5,7% trong vòng 6 tháng và 7 tháng là 5,8%). 

Trong đó, sản lượng bia của SABECO ước đạt 673,1 triệu lít, tăng 8,8% so với cùng kỳ (7 tháng là 778,8 triệu lít, tăng 8,2%); của HABECO ước đạt 299,8 triệu lít, tăng 13,7% (7 tháng là 373,2 triệu lít, tăng 10,4%); các doanh nghiệp còn lại sản xuất ước đạt 400,2 triệu lít, tăng 11,56% so với cùng kỳ (7 tháng là 478,6 triệu lít, tăng 8,8%). 

Riêng hai thương hiệu Bia Hà Nội và Bia Sài Gòn ước đạt 903,2 triệu lít, chiếm 65,8% tổng lượng bia sản xuất toàn ngành và tăng 11% so với cùng kỳ (7 tháng là 1.063,3 triệu lít, chiếm 65,2%, tăng 9,6%). 

Nhìn chung, sản lượng vẫn tập trung vào 4 tổng công ty, tập đoàn lớn SABECO, HABECO, Heineken, Carlsberg.

Ngành rượu - nước giải khát tuy có phần khó khăn hơn, tuy nhiên, theo VBA, các doanh nghiệp hội viên của Hiệp hội vẫn cố gắng đạt kế hoạch đề ra. Sản lượng nước giải khát trong 6 tháng đầu năm tăng cao, đạt 4,2 tỷ lít; mức tăng trưởng của ngành đạt khoảng 20%.

Nhìn chung, với mức tăng trưởng sản xuất bình quân trên 10%/năm, mỗi năm ngành bia - rượu - nước giải khát đóng góp trên 20.000 tỷ đồng cho ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động trong tất cả các khâu sản xuất, phân phối, cung ứng, vận tải…

Tình hình tăng trưởng tốt của ngành bia - rượu - nước giải khát diễn ra giữa bối cảnh mỗi tháng có hàng nghìn doanh nghiệp phá sản và tạm dừng hoạt động. Chỉ trong nửa đầu năm 2013 đã có 25.000 doanh nghiệp đóng cửa trên cả nước. Nguyên nhân khó khăn của hầu hết các doanh nghiệp hiện nay là thiếu vốn và bế tắc đầu ra khiến tồn kho tăng cao, gây nên gánh nặng lãi vay và chi phí ưu kho, rủi ro trong bảo quản sản phẩm.

Mặc dù vậy, một vấn đề mà ngành bia - rượu - nước giải khát đang gặp phải là nguy cơ bị thôn tính. Tại Hội thảo “Cạnh tranh lành mạnh để bảo vệ người tiêu dùng và thương hiệu Việt” diễn ra trước đó, ông Nguyễn Văn Việt từng chỉ ra thực trạng, sự cạnh tranh với bia nhập khẩu, với các nhãn hiệu rượu nhái, rượu kém chất lượng đang có xu hướng gia tăng trên thị trường và chưa có giải pháp xử lý hữu hiệu.

Hơn nữa, việc các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong cùng ngành bằng cách thức chuyển giá, trốn thuế cũng gây nên những khó khăn cho doanh nghiệp trong nước khi cạnh tranh ngay trên "sân nhà".

Riêng trong ngành sản xuất nước giải khát, trước sự cạnh tranh của các “đại gia” nước ngoài, hiện nay chỉ có một số ít doanh nghiệp trong nước còn tồn tại, trong đó lớn nhất là Tập đoàn Tân Hiệp Phát bên cạnh hai thương hiệu lớn là Coca Cola và Pepsi. Gần đây nhất, thương hiệu Tribeco cũng rơi vào tay Tập đoàn Uni-President, cổ đông lớn nhất của Tribeco Sài Gòn trước khi giải thể.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Hồ Thị Kim Thoa đề nghị, trong thời gian tới các doanh nghiệp cũng cần tích cực cung cấp thông tin, số liệu chính xác cho Hiệp hội và đóng góp nguồn kinh phí để phục vụ tốt hơn nữa các hoạt động của VBA; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các thương hiệu.

Bích Diệp

Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

Sự khác nhau giữa SEo và Adwords


Về việc quảng bá website trên Google thì hiện nay có 2 hình thức được sử dụng chủ yếu là:
1. Google Adwords:
Đây là dịch vụ quảng cáo website có tính phí của Google.
Chi phí trả theo từng click chuột (Pay per click).
Quảng cáo hiển thị bên cột phải của Google hoặc hiển thị ngang ở vị trí top bên trái của cột kết quả tìm kiếm với background màu vàng hoặc màu hồng.
Chúng ta có thể nhận biết đâu là quảng cáo Adwords bằng tiêu đề Quảng cáo được hiển thị gần ngay cột chứa nội dung quảng cáo.
Khuyết điểm: Về lâu dài thì dịch vụ tốn chi phí khá nhiều do chi phí phải trả liên tục trong suốt thời gian quảng cáo.
Ưu điểm: nhanh chóng hiển thị quảng cáo trên Google và không bị tốn phí khi không có người click vào quảng cáo nhưng quảng cáo vẫn hiễn thị.
2. SEO (Search Engine Optimization – Tối ưu hóa website):
Đây là dịch vụ tối ưu hóa source web, các meta tags … để website trở nên thân thiện với công cụ tìm kiếm, website của quý khách sẽ nằm trong top 10 vị trí tìm kiếm đầu tiên của Google với từ khóa mà quý khách chọn để làm SEO.
Kết quả hiễn thị ở cột trái, vị trí các kết quả tìm kiếm tự nhiên. Đây là vị trí hiệu quả nhất vì Khách hàng thường xuyên click vào nhiều nhất.
Chi phí dịch vụ tùy theo từng từ khóa cụ thể quý khách đề nghị. Mỗi từ khóa có mức chi phí khác nhau do mức độ cạnh tranh khác nhau. Từ khóa có dấu và từ khóa không dấu được tính là 2 từ riêng biệt (ví dụ: “Thiết kế website” và “thiet ke website” là 2 từ khóa khác nhau.)
Khuyết điểm:
- Chi phí cho việc thực hiên SEO rất nhiều, có thể từ vài triệu đến vài chục triệu.
- Thời gian thực hiện lâu, kéo dài từ 2 đến 6 tháng.
Ưu điểm: Tính về lợi ích thì SEO tuy phải bỏ ra chi phí lúc ban đầu nhiều hơn Adwords nhưng về lâu dài thì SEO mang lại hiệu quả cao hơn, chi phí thì không phải trả quá nhiều theo thời gian.

Các loại hình quảng cáo phổ biến hiện nay


Hiện nay cùng với sự phát triển kinh tế, số lượng các doanh nghiệp ra đời ngày càng nhiều cũng đồng nghĩa mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt. Do vậy công nghệ quảng cáo đóng góp vai trò quan trọng trong kế hoạch của từng doanh nghiệp để tồn tại và phát triển. Trong khi các đối thủ khác đang “phô trương” sức mạnh của mình thì bắt buộc ta không thể ngồi yên. Tuy nhiên trong thời kỳ bão giá và lạm phát như hiện nay, việc lựa chọn nội dung và hình thức quảng cáo sao cho phù hợp với mục tiêu cũng như tài chính của công ty khiến nhiều doanh nghiệp “đau đầu”. Vậy phương tiện Quảng Cáo nào cho hiệu quả tốt, thu hút đối tượng người xem nhiều nhất hiện nay?. Trong bài viết này tôi xin giới thiệu tóm tăt một số loại hình quảng cáo đang được các doanh nghiệp ưa chuộng hiện nay.



Quảng cáo trên truyền hình:

Đây là hình thức quảng cáo được các doanh nghiệp “đại gia” ưa chuộng và sử dụng nhiều nhất. Quảng cáo trên truyền hình được chia thành nhiều loại: TVC, tự giới thiệu, tài trợ chương trình, bán hàng qua truyền hình… Ưu đểm của loại hình quảng cáo này là phạm vi truyền tải rộng và thu hút được đối tượng người xem nhờ truyền tải được âm thanh và hình ảnh chân thực. Tuy nhiên để ghi lại dấu ấn với người xem, khiến người xem lưu ý, các hình ảnh này phải được lặp đi lặp lại nhiều lần trong ngày, tháng mới có thể đạt được hiệu quả như mong muốn. Tuy nhiên giá thành của loại hình quảng cáo này tương đối cao nên các doanh nghiệp mới thành lập còn hạn chế về tài chính sẽ khó chọn nó làm phương tiện để truyền đạt sản phẩm đến người tiêu dùng.

Trên báo chí , tạp chí, website và tờ rơi:

Quảng cáo trên báo chí là loại hình quảng cáo có tuổi thọ lâu đời hơn bất cứ các dạng quảng cáo khác ngày nay và hiện tại nó vẫn được các doanh nghiệp “gởi gắm” sản phẩm của mình.Tiện ích của báo chí hay tạp chí là mức độ lan truyền, nó có thể truyền tay từ người này sang người khác, khi đọc xong thông tin bạn có thể cất giữ nó để có thể tìm đọc lại khi bạn cần. Khi công nghê thông tin phát triển, cũng là lúc quảng cáo tiến xa thêm 1 bước. Những trang báo mạng luôn được giới văn phòng và các bạn trẻ ưa chuộng, vì vậy quảng cáo trên các website cũng được các doanh nghiệp bắt đầu chú ý đến. Về mặt hình ảnh của báo chí, tạp chí hay các website sẽ không thể bằng hình ảnh trên truyền hình, vì vậy để thu hút người xem, các doanh nghiệp nên làm nổi bật tiêu đề bao gồm tên, công dụng, chức năng, giá cả và nơi sản xuất sản phẩm. Đừng quên chọn cho sản phẩm của mình một tờ báo hay website uy tín để truyền đạt thông tin, tránh những tờ báo lá cải vì tỷ lệ người đọc không nhiều và mức độ quan tâm cũng ít hơn so với những báo uy tín khác. Tờ rơi có lẽ là loại hình quảng cáo cuối cùng trong nhóm phương tiện quảng cáo in ấn, nó là phương tiện quảng cáo được nhiều doanh nghiệp nhỏ mới thành lập sử dụng, vì chi phí dành cho tờ rơi tương đối không cao. Điểm hạn chế của tờ rơi chính là không làm cho người đọc cảm thấy tin tưởng và quan tâm, thông thường khi cầm trong tay tờ rơi, người đọc sẽ nhìn sơ qua nội dung và sau đó thẳng tay ném ngay vào sọt rác, người nào quan tâm thì sẽ giữ lại cất vào túi xách, nhưng không biết sau khi về nhà họ còn “ngó ngàng” gì đến nó hay không.

Quảng cáo ngoài trời:

Nói đến quảng cáo ngoài trời ta thường hay nghe những từ như Pano, Billboard: tên gọi chung cho loại hình quảng cáo đặt ở tầm cao như bảng quảng cáo trên nóc và tường các tòa nhà; Street furniture: chỉ những loại hình quảng cáo ở tầm thấp, dọc trên đường như quảng cáo ở nhà chờ xe buýt, buồng điện thoại…; Transit: loại hình quảng cáo di động như trên xe buýt, taxi… tất cả là một phần trong quảng cáo ngoài trời-Outdoor. Thông thường những biển quảng cáo outdoor thường đặt tại những tuyến đường đông người đi lại, hay những khu trung tâm chính mục đích để thu hút được đông đảo số lượng người xem. Do phải nằm một chỗ bất động nên hầu như đối tượng người xem rất hạn chế, đa số là những người thường xuyên đi lại trên tuyến đường đó hoặc đến nơi đó. Các doanh nghiệp khi chọn loại hình quảng cáo này đa phần đều phải phân bố những bảng quảng cáo của mình đều các khu vực trong thành phố, tỉnh thành mới có thể đem lại kết quả như mong muốn. So với Pano, Billboard hay Street furniture thì Transit có phần ưu thế hơn, nếu Pano, Billboard, Street chỉ cố định một chỗ thì transit sẽ như một bảng quảng cáo di động, nó di chuyển từ tuyến đường này sang tuyến đường khác, hàng ngày hằng giờ.



Tổ chức sự kiện:

Tổ chức một event để giới thiệu sản phẩm có lẽ là phương thức hữu hiệu nhất đối với doanh nghiệp nào muốn quảng bá sản phẩm của mình đến tận tay người tiêu dùng. Tuy nhiên để tổ chức thành công và mang về hiệu quả như mong muốn các doanh nghiệp cần phải chọn lựa thời điểm, địa điểm thích hợp và định vị được đối tượng hướng đến để thu hút người xem và tham gia. Hình thức event được các doanh nghiệp ưa chuộng hiện nay để đưa sản phẩm đến gần với người tiêu dùng là tổ chức những buổi phát sampling miễn phí tại các siêu thị, trung tâm mua sắm, chợ hay các chuỗi cửa hàng và hiệu quả mang lại tương đối cao.

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013


Đặc điểm của Marketing Online
Đặc điểm cơ bản của hình thức Marketing online là khách hàng có thể tương tác với quảng cáo, có thể click chuột vào quảng cáo để mua hàng, để lấy thông tin về sản phẩm hoặc có thể so sánh sản phẩm này với sản phẩm khác, nhà cung cấp này với nhà cung cấp khác…
Marketing online là hình thức quảng cáo trên mạng, quảng cáo trên cộng đồng mạng nhằm thúc đẩy xúc tiến việc bán hàng, quảng bá thương hiệu, hình ảnh, dịch vụ của công ty đến với khách hàng.
Marketing online sẽ giúp cho nhà cung cấp có thể lựa chọn được khách hàng mục tiêu và tiềm năng mà doanh nghiệp muốn hướng tới từ đó giúp doanh nghiệp cắt giảm được nhiều chi phí, nâng cao hiệu quả của công việc kinh doanh. Đây là đặc điểm cơ bản nhất mà các loại hình quảng cáo khác không có được như: quảng cáo Tivi, Raddio, báo giấy...

Hiệu quả của Marketing Online
Hiệu quả của Marketing online mang lại vô cùng lớn nay khi mà Internet đã chiếm lĩnh thị trường, chỉ cần một vài lần click chuột là bật cứ đâu trên thế giới này bạn cũng có thể biết thông tin của bất kỳ sản phẩm, dịch vụ hay như các thông tin mà bạn muốn.
Việc quảng cáo trên mạng sẽ giúp bạn lựa chọn định vị được khách hàng tiềm năng, khách hàng mục tiêu do đó sẽ tiết kiệm rất nhiều chi phí giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả trong việc kinh doanh.
Thêm vào đó hiện nay số người sử dụng Internet đang tăng với tốc đọ rất nhanh, do đó quảng cáo hay kinh doanh trên mạng sẽ là một lựa chọ tốt nhất cho doanh nghiệp.

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013

Học bổng ADS nhận hồ sơ trực tuyến


Học bổng ADS nhận hồ sơ trực tuyến

Đây là lần đầu tiên các ứng viên dự tuyển Học bổng Phát triển Australia (ADS) bao gồm cả học bổng lãnh đạo Australia có thể nộp hồ sơ trực tuyến, thông qua website http://www.asdiv.edu.vn/. Hạn cuối là ngày 31/5.
Học bổng Phát triển Australia nằm trong khuôn khổ chương trình Học bổng Chính phủ Australia. Kết quả tuyển chọn sẽ được công bố vào tháng 10/2011 và các khóa học bậc sau đại học sẽ bắt đầu từ đầu năm 2012.
Học bổng trị giá tới 300.000 AUD bao gồm chi phí đi lại, học tập và sinh hoạt phí để theo học tại bất kỳ trường đại học nào của Australia. Đặc biệt, chương trình cung cấp một khóa đào tạo tiếng Anh toàn thời gian kéo dài tới 10 tháng trước khóa học chính thức nếu cần thiết.

Ứng viên được trao học bổng cũng sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới 4.000 cựu du học sinh Việt Nam đã từng du học theo các chương trình Học bổng Chính phủ của Australia. Đội ngũ cựu du học sinh này đang tiếp tục chuyển giao những kỹ năng và kinh nghiệm họ học được tại Australia cho các đồng nghiệp Việt Nam trong công việc hàng ngày.

Các ứng viên xuất sắc có tiềm năng lãnh đạo sẽ được trao Học bổng Lãnh đạo Australia, với một số khóa học bổ sung về năng lực lãnh đạo. Năm nay, sẽ có khoảng 245 suất học bổng để hỗ trợ Việt Nam phát triển nguồn nhân lực.

Với trọng tâm là lĩnh vực phát triển, phù hợp với các định hướng ưu tiên của Chính phủ Việt Nam, các học bổng sẽ hướng đến giới học giả, công chức nhà nước và các đối tượng đang làm việc trong lĩnh vực phát triển nông thôn ở Việt Nam.

Giá đào tạo nghề quảng cáo biển bảng


Giá đào tạo nghề quảng cáo biển bảng

- Căng Bạt Bảng hiệu, Hộp Đèn . . . 
- Hàn Khung bảng hiệu, Hộp đèn, Kết cấu Alu (Hàn que),
- Dạy Đấu đèn Neon sign,
- Ốp Nhôm Mặt dựng Alu và các công việc khác liên quan…
- Tiếp xúc khách hàng: các bước cần thiết trước khi ký kết hợp đồng.  
- Thuật Phong Thủy, bình màu sắc kỵ, hạp của khách hàng …
- Xem thước Lổ ban, Bát tiên …
* Hướng dẫn tận tình, chỉ chổ mua hàng giá gốc  - Cấp Giấy Xác Nhận.
- Học phí trọn gói: 5.000.000đ/khóa/3 tháng. Bao ra nghề, không giới hạn thời gian, ban ngày, Học viên có thể học 1 buổi/ ngày; hoặc tùy sắp xếp. 
* Nhận Học Viên Thí Công (cho những Học Viên có hoàn cảnh khó khăn… Nâng đở Học Viên Khuyết Tật)
- Có thể tháng thứ 2, trả lương theo năng lực, như các đồng nghiệp khác; khi làm được việc và ký hợp đồng Lao động dài hạn với Công Ty.
- Chuyển Giao Công Nghệ: Ép Nổi Chữ 3D Mica như Chữ TOYOTA, LOTTERIA, YAMAHA, HONDA, SUZUKI, VP Bank…
Học phí: 25.000.000đ, (Hai mươi lăm triệu đồng), Thời gian: 1 tuần. 
- Thi Công Đèn Led, Học phí: 10.000.000đ, (Mười triệu đồng, không bao gồm Học cụ),  2 tuần.
 - Xử Lý Đèn ống Neon sign, Học phí: 65.000.000đ, (Sáu mươi lăm triệu đồng, bao gồm máy xử lý chính)
 - Thời gian học: 6 tuần.
- Tem xe 3D: (Đổ Keo, phủ lên bề mặt Nhãn, Mác, Bảng tên Nhân viên cao cấp, Tem xe 3D các loại…):
 Học phí: 5.000.000đ (Năm triệu đồng), không bao gồm Học cụ),  1 tuần.
- Ăn Mòn Kim Loại (Bảng tên Công Ty cao cấp, Nhãn, Mác…),
Học phí: 5.000.000đ (Năm triệu đồng), không bao gồm Học cụ),  1 đến 2 tuần.

Viral marketing Seminar lần đầu tiên tại Việt nam


Viral marketing Seminar lần đầu tiên tại Việt nam

Chương trình VIRAL CONTENT – Viral Marketing – Seo copywriting học cách tạo ra nội dung có hàng triệu người đọc, hàng trăm ngàn LIKE đem lại hiệu quả cực cao cho doanh nghiệp đã thành công tốt đẹp với sự có mặt của hàng trăm thành viên. Các bạn quan tâm đến khóa học xin tham khảo chương trình tại http://daotaoseo.com/?p=420

Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

5. Nguyên tắc thoả mãn nhu cầu thông tin của con người:

Tình hình chính trị, xã hội hiện nay không ít trường hợp gây ra sự căng thẳng và sợ hãi, phấn khởi và vui mừn. Con người luôn luôn đón nhận các luồng thông tin ở các cấp độ khác nhau (quốc tế, châu lục, quốc gia, địa phương). Ví dụ: Khủng bố quốc tế 11/9; xung đột tôn giáo, sắc tộc…Về kinh tế, văn hoá, xã hội thì hội nhập, mở cửa, liên doanh, liên kết. Con người luôn luôn có nhu cầu thông tin để loại trừ các căng thẳng bảo đảm can toàn tính mạng và phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh, làm giàu, nâng cao đời sống của bản thân. Tuyên truyền và quảng cáo cần phải đáp ứng nhu cầu đó của nhân dân.Từ quan điểm quảng cáo tuyên truyền và quảng cáo cần phải thực hiện một vai trò rất quan trọng: đó là đảm bảo thông tin cho đông đảo quần chúng để họ có thể định hướng được trong một xã hội luôn luôn biến động như đầu thế kỷ XXI này.
Như vậy con người luôn luôn có nhu cầu về thông tin chính trị, xã hội… Chúng ta có thể hiểu rằng nhu cầu về thông tin là trạng thái tâm lý cho chúng ta biết sự thiếu hụt tin tức về thế giới xung quanh biểu hiện qua các trạng thái cảm xúc hẹp thoải mái (lo lắng, căng thảng) gây ảnh hưởng không tốt đến hành vi của con người. Nhu cầu thông tin là nhu cầu cấp cao mang tính xã hội của con người, chúng ta có thể coi đây là nhu cầu nhận thức. Trong một mức độ nào đó chúng ta có thể coi đây là một nhu cầu an toàn nó giúp cho con người tránh được các rủi ro đảm bảo sự tồn tại và phát triển.
Tuyên truyền và quảng cáo cung cấp các thông tin về các sự kiện chính trị, xã hội và sự phát triển của khoa học, công nghệ, kinh tế và đời sống… giúp cho nguời dân thoả mãn được các nhu cầu thông tin. Từ đó một loạt các vấn đề thực tế nảy sinh như sau:
Nhu cầu của con người về thông tin chính trị, kinh tế, xã hội…rất đang dạng. Vì thề việc thoả mãn nhu cầu thông tin cho quần chúng là một vấn đề rất khó điều này không chỉ phụ thuộc vào số lượng kênh thông tin mà còn các sự kiện được sử dụng trong tuyên truyền, quảng cáo. Như chúng ta biết: vô tuyến, báo chí, và đài phát thanh cũng chỉ có thể chuyển tải thông tin tuyên truyền quảng cáo trong những thời gian hạn chế. Muốn giải quyết được vấn đề này cần phải xác định được mức độ cần thiết thoả mãn nhu cầu thông tin của thông tin.
Nguyên tắc cung cấp thong tin tối đa trong quá trình tuyên truyền quảng cáo có thề được thực hiện bằng cách tăng cường sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng. Nhưng để thực hiện tốt nguyên tắc này thì phải sử dụng đúng các mức độ thông tin. Mức độ thông tin được hiểu là tất cả các phương tiện cung cấp thông tin cho các nhóm người có số lượng và lãnh thổ cư trú khác nhau. (Ví dụ: các phương tiện truyền thông đại chúng trung ương và địa phương).
Căn cứ váo số lượng và lãnh thổ của người nhận tin người ta chia ra làm 4 mức độ thông tin có bản sau:
Mức độ1: Các phương tiện truyền thông đại chúng trung ương (báo chí trung ương, các cơ quan xuất bản sách chính trị trung ương, Internet…).
Mức độ 2: Các phương tiện truyền thông đại chúng địa phương (báo chí địa phương, các chương trình vô tuyến và đài phát thanh địa phương, các nhà xuất bản địa phương, các cơ quan xuất bản sách về địa phương….).
Mức độ 3: Các phương tiện truyền thông đại chúng ở các nhà máy, côn ty, xí nghiệp và các tổ chức công sở…(Báo chí của công ty, đài phát thanh của công ty và các bảng biểu, khẩu hiệu tuyên truyền, quảng cáo.
Mức độ 4: Học tập chính trị và thông tin giành cho các bộ chuyên trách của công ty, xí nghiệp. Hiệu quả hoạt động tuyên truyền và quảng cáo và việc thực hiện các nhiệm vụ truyền thông ở từng mức độ đòi hỏi tuân thủ tỷ lệ giữa thông tin chung và thông tin riêng. ở mực độ cảng thấp thì càng cần sử dụng nhiều thông tin riêng (thông tin địa phương) và ít sử dụng và nhắc lại thông tin ở mức độ cao hơn.
V.I. Lênin đã chỉ rõ sự cần thiết phải hạn chế thông tin chung ở mức độ thông tin địa phương như sau: Thông tin địa phương sao chép lại nguyên bản thông tin trung ương mà cần thay đổi một cách sáng tạo các thông tin này cho phù hợp với điều kiện địa phương” (1)
Trong quảng cáo sản phẩm hàng hoá cũng cần vận dụng nguyên tắc này của chương trình quảng cáo địa phương muốn có hiệu quả cần phải tìm hiểu đặc điểm văn hoá xã hội, lịch sử của các địa phương và lựa chọn sản phẩm, hàng hoá phù hợp. Có thể sự dụng các chương trình quảng cáo trung ương nhưng phải biến đổi cho phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương mình.
Nguyên tắc thoả mãn nhu cầu thông tin là một trong những nguyên tắc tâm lý cơ bản nhất quyết định hiệu quả của hoạt động tuyên truyền quảng cáo.

6. Nguyên tắc cá thể hoá trong hoạt động tuyên truyền quảng cáo.

Hoạt động tuyên truyền quảng cáo về thực chất là hoạt động hướng tới quân chúng (Tập thể, các nhóm xã hội, các dân tộc). Nhưng không phải vì thế mà trong quá trình quảng cáo bỏ qua các yếu tố tâm lý là nhân. Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Kết quả tuyên truyền quảng cáo không chỉ phụ thuộc vào đặc điểm tâm lý xã hội của các nhóm mà còn phụ thuộc vào trình độ các các thành viên, địa vị xã hội, nguồn gốc và thời gian tham niên trong nhóm của xã họ… các đặc điểm trên không chỉ ảnh hưởng tới hứng thú, sở thích sản phẩm, hàng hoá, mà còn sự quan tâm chính trị của họ. Chính việc này đã quyết định việc lựa chọn nguồn gốc nguồn thông tin và công ty, nhãn mác sản phẩm thương hiệu của họ.
Nguyên tắc cá thể hoá trong tuyên truyền, quảng cáo yêu cầu thông điệp tuyên truyền quảng cáo phải phù hợp với nhận thức của người được quảng cáo. Mặc dù tuyên truyền quảng cáo hướng tới quân chúng, các nhóm xã hội nhưng việc lĩnh hội các thông tin này phụ thuộc vào các đặc điểm tâm lý của các thành viên trong nhóm. Thực chất các nguyên tắc này là lựa chon cho các thông điệp quảng cáo phù hợp với thừng cá nhân. Nguyên tắc này sử dụng cho các nhóm xã hội cần phải thay đổi một cách hợp lý. Nhiều nhà tâm lý học cho rằng nguyên tắc cá thể hoá trong dạy học là quá trình làm thích ứng tài liệu với khả năng tri giác của các học sinh trong nhóm học tập.
Trong hoạt động tuyên truyền quảng cáo chúng ta có thể hiểu nguyên tắc cá thể hoá là nội dung và phương pháp tuyên truyền quảng cáo cần phải phù hợp với mức độ trung bình các các nhóm xã hội mà tuyên truyền quảng cáo hướng tới. Sự phù hợp như thế làm cho các quá trình lĩnh hội thông điệp quảng cáo dễ dàng hơn và hiệu quả của hoạt động tuyên truyền quảng cáo đối với nhóm cao hơn.
Như vậy khi tổ chức các hình thức tuyên truyền, quảng cáo thì trước hết phải trả lời các câu hỏi các sự kiện và bình luận nào cần phải được áp dụng đối với nhóm đó. Và số lượng các sự kiện và cách thức thể hiện thông điệp như thế nào?
Cá thể hoá tác động tuyên truyền, quảng cáo phụ thuộc không chỉ ở các đặc điểm tâm sinh lý- xã hội nhân cách mà còn phụ thuộc vào tình huống xã hội thúc đẩy (hoạt hoá) các đặc điểm đó. Vì thế các đặc điểm tâm lý xã hội sẽ luôn thay đổi theo thời gian. Cá thể hoá cần phải được cụ thể hoá cùng với sự thay đổi sử sự kiện của sự phát triển tình huống chính trị văn hoá, xã hội, lịch sử, kinh tế, sản xuất….
Để thực hiện tốt nguyên tắc này cần phải nghiên cứu trước các nhóm Xã hội là đối tượng của tuyên truyền, quảng cáo. Kiến thức về môi trường ở đây thể hiện lối sống xã hội truyền thống và các quan hệ chính trị, xã hội, thói quen và kiểu tư duy….Trắc là toàn bộ những cái ảnh hưởng tới tâm lý con người trong nhóm. Khi tổ chức các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo thì tất cả các yếu tố này cần phải được chú ý. Trước khi xây dựng phương hướng và hình thức tuyên truyền quản cáo cho các nhóm xã hội khác nhau cần phải phân tích một cách chi tiết các đặc điểm tâ lý- xã hội của các nhóm này. Các kiến thức về các đặc điểm tâm lý của các nhóm xã hội cụ thể cho phép giải quyết một cách khoa học. Việc hoàn thiện của các hình thức tuyên truyền, quảng cáo.
Việc phân tích tâm lý- xã hội có kết quả phụ thuộc rất nhiều vào các thành quả tâm lý xã hội và xã hội học và kinh nghiệm công tác thực tế của các chuyên gia tuyên truyền, quảng cáo và sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng.

Các nguyên tắc tâm lý trong hoạt động tuyên truyền quảng cáo

Các nguyên tắc tâm lý trong hoạt động tuyên truyền quảng cáo 
Có thể đưa ra các nguyên tắc tâm lý trong hoạt động tuyên truyền quảng cáo dựa trên các nguyên tắc dạy học và giáo dục. Dựa trên các quy luật của công tác giáo dục, chúng ta có thể đưa ra các kiến nghị để tiến hành công việc này. Mỗi nguyên tắc được cụ thể hoá thành các quy định cụ thể. Nguyên tắc xác định dạng hoạt động (hành vi) dựa trên các điều kiện cụ thể của thế giới khách quan.
Các nguyên tắc hoạt động phụ thuộc vào mục đích được đặt ra trong hoạt động đó. Mục đích chính của hoạt động tuyên truyền quảng cáo là đưa nội dung thông điệp tuyên truyền quảng cáo vào ý thức của mọi người. Nội dung này cần phải được họ lĩnh hội đưa tới sự thay đổi hệ thống các quan điểm phù hợp của người làm công tác tuyên truyền, quảng cáo. Kết quả của tuyên truyền phụ thuộc vào sự chuẩn bị và truyền đạt thông điệp có phù hợp hay không với các nguyên tắc tâm lý. Các nguyên tắc này được đưa ra dựa trên các quy luật của tri giác. Thông điệp tuyên truyền, quảng cáo phải tạo ra được sự quan tâm, lôi cuốn người nhận và có sức thuyết phục. Các nguyên tắc tâm lý trong tuyên truyền và quảng cáo như sau: Nguyên tắc tác động thuyết phục; Nguyên tắc ám thị; Nguyên tắc nhanh chóng; Nguyên tắc sử dụng các sự kiện nóng hổi; Nguyên tắc thoả mãn nhu cầu thông tin của con người; Nguyên tắc cá thể hoá trong hoạt động tuyên truyền quảng cáo.
1. Nguyên tắc tác động thuyết phục.

Vấn đề tác động thuyết phục trong hoạt động tuyên truyền quảng cáo là rất khó. Có rất nhiều các học thuyết đã đánh giá quá cao vai trò của ám thị trong hoạt động này. Theo chúng tôi, ám thị đóng vai trò quan trọng trong tác động thuyết phục của tuyên truyền quảng cáo nhưng không phải là yếu tố duy nhất. Vậy chúng ta cần phải làm rõ ám thị là gì.
Trong tâm lý học, ám thị được hiểu là tác động của người này lên người khác ảnh hưởng tới niềm tin, tâm thế và quyết định của họ (không cần phải ra lệnh hoặc suy nghĩ về tính hợp lý). Khi bị ám thị, con người hoạt động không có động cơ và không kiểm tra được các tác động từ môi trường. Người bị ám thị có thể hoạt động không có ý chí hoặc ngược lại với lý trí của mình.
Trong tuyên truyền và quảng cáo có thể sử dụng ám thị ở các mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào mục tiêu, ý thức hệ của hoạt động này. Tuyên truyền quảng cáo sẽ thực hiện tốt chức năng giáo dục của mình nếu nó hướng vào lợi ích, nhu cầu và hứng thú của con người. Ám thị còn được sử dụng để tạo ra dư luận xã hội và ảnh hưởng rất mạnh tới khán giả. Tuy nhiên không nên tuyệt đối hoá vai trò của ám thị. Mức độ ám thị của thông điệp tuyên truyền quảng cáo còn phụ thuộc vào nội dung, hình thức và cả nhân cách của người tuyên truyền, quảng cáo (uy tín, phẩm chất của họ).
* Áp dụng nguyên tắc ám thị trong tuyên truyền, quảng cáo.
Hoạt động tuyên truyền, quảng cáo sẽ có kết quả cao nhất khi đạt được sự thống nhất lợi ích và sự quan tâm giữa người tuyên truyền quảng cáo và khán giả. Áp dụng ám thị tuyên truyền, quảng cáo phải tạo ra được ám thị phù hợp với hệ thống động cơ của người nghe. Vì vậy, ám thị được quy định bởi các phương tiện được sử dụng làm cho thông điệp quảng cáo dễ được chấp nhận và cuốn hút người nghe hơn (nhưng không được làm thay đổi nội dung thông điệp).
Những khó khăn gặp phải khi sử dụng ám thị trong tuyên truyền quảng cáo là: khán giả có thể khó tiếp thu thông điệp do trình độ, quan điểm, truyền thống hoặc tình huống xã hội. Trong trường hợp đó, ám thị sẽ có tác động rất tốt nếu như tạo ra được không khí hoặc phong cảnh phù hợp.
Vấn đề làm sao chiếm được niềm tin của khán giả cũng là câu hỏi khó trong tuyên truyền quảng cáo. Các công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học Lewicki .A (Ba Lan) đã chứng minh rằng các phẩm chất nhân cách của người tuyên truyền, quảng cáo, đã ảnh hưởng rất lớn tới tác động ám thị trong hoạt động này. Chính niềm tin đã tạo ra cơ sở thừa nhận tính trung thực của các bình luận trong quảng cáo. Yếu tố ảm thị mạnh nhất là địa vị xã hội của người tuyên truyền, quảng cáo, uy tín đạo đức và nghề nghiệp cũng như các phẩm chất giao tiếp thúc đẩy việc thiết lập quan hệ với những người khác như: cởi mở, chân thành, trung thực…
Khả năng ám thị của tác động tuyên truyền quảng cáo còn phụ thuộc vào hình thức của thông điệp và các yếu tố như: tính chính xác của ngôn ngữ, tính rõ ràng của biểu đạt, kỹ năng trình bày hùng biện và truyền đạt tốt các nội dung, ý tưởng của mình. Ngoài các yếu tố kể trên, khả năng gây ám thị còn phụ thuộc vào một số điều kiện và tình huống bên ngoài như: Thời gian, cơ hội, vị trí tuyên truyền quảng cáo, nền văn hoá, xã hội, lịch sử của người tiếp nhận tác động tuyên truyền, quảng cáo.

2. Nguyên tắc nhanh chóng trong hoạt động tuyên truyền quảng cáo.
Tình hình chính trị, kinh tế, khoa học và công nghệ trên thế giới luôn thể hiện tính sinh động cao của các sự kiện mới, vì thế các sự kiện này phải được phản ánh trong tuyên truyền và quảng cáo. Tính chất kịp thời, nhanh chóng trong tuyên truyền quảng cáo quyết định hiệu quả của hoạt động này.
Sử dụng tiêu chuẩn hoạt động nhanh trong hoạt động tuyên truyền quảng cáo có thể chia làm 3 loại: trước, đồng thời và sau.
Hoạt động tuyên truyền quảng cáo trước là hoạt động được tiến hành trước một sự kiện nào đó. Ví dụ: cuối tháng 8 chúng ta tổ chức các hoạt động tuyên truyền cho ngày thành lập nước CHXHCN Việt Nam; trước Tết chúng ta quảng cáo các sản phẩm hàng hoá phục vụ Tết như mứt, rượu, kẹo, bánh, quất, đào… Hoạt động tuyên truyền, quảng cáo trước chỉ có thể được tiến hành khi chúng ta có đầy đủ và chính xác thông tin về sự kiện sẽ xảy ra vào một thời điểm xác định. Đây là hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng vì nó tạo ra được tâm thế, tình cảm và thái độ sẵn sàng để tiếp nhận sự kiện.
Hoạt động tuyên truyền quảng cáo đồng thời là hoạt động phổ biến nhất. Hoạt động tuyên truyền quảng cáo đồng thời là hoạt động được tiến hành đồng thời với một sự kiện nào đó. Mục đích của hoạt động này là phổ biến thông tin về một sự kiện nào đó đang xảy ra, hỗ trợ sự hiểu biết và phân tích đúng sự kiện. Chúng ta có thể hiểu rằng hoạt động tuyên truyền, quảng cáo đồng thời là nhằm giải thích sự kiện, giúp cho khán giả, người tiêu dùng tránh được sự sai lầm hoặc không hiểu biết tốt sự kiện, sản phẩm và hàng hoá.
Ví dụ: Hiện nay đã xuất hiện loại hàng giả nào đó giống với sản phẩm của công ty tôi…xin khách hàng lưu ý…
Tuyên truyền quảng cáo sau: Đây là hoạt động tuyên truyền, quảng cáo được sử dụng khi một sự kiện nào đó xảy ra không được làm sáng tỏ và giải thích cụ thể và gây ra những thắc mắc, mâu thuẫn trong khán giả. Bởi nếu thiếu đi sự giảng giải của người tuyên truyền, quảng cáo, thế khán giả sẽ tự giải thích sự kiện và không ít trường hợp giải thích sai.
Trong tuyên truyền thì sự nhanh chóng nhằm mục đích vượt qua đối thủ của mình để tác động tới dư luận xã hội và quan điểm của họ. Trong quảng cáo thì các thông tin về sản phẩm hàng hoá mới, công dụng mới, chất lượng mới bao giờ cũng thu hút sự chú ý của người nghe hơn. Hiệu quả của tuyên truyền, quảng cáo phụ thuộc rất nhiều vào sự nhanh chóng của việc truyền đạt thông điệp, tốc độ phản ứng và sự giải thích các sự kiện xảy ra. Thực chất là lời bình luận sự kiện đầu tiên bao giờ cũng cuốn hút chú ý của người nghe và được lưu lại trong trí nhớ một cách bền vững nhất.
Các công trình nghiên cứu đã khẳng định quy luật này như sau: Người ta dùng 2 thông điệp về một sự kiện có nội dung đánh giá trái ngược nhau, kết quả nghiên cứu cho thấy rằng thông điệp được truyền đạt đầu tiên bao giờ cũng đưa lại sự thay đổi quan điểm như mong muốn. Thông điệp thứ 2 tác động tới khán giả có hiệu quả thấp hơn.
Về mặt tâm lý, quy luật này có thể được giải thích như sau: Các thông điệp đầu tiên và sự giải thích của nó có thể hình thành ở người nghe thái độ phù hợp với thái độ được hình thành trong tuyên truyền, quảng cáo. Thực chất là do tri giác được ý nghĩa của thông điệp đầu tiên mà tạo ra được hàng rào tâm lý ngăn cản các tác động có nội dung ngược lại, luận điểm này có ý nghĩa đặc biệt trong trường hợp con người không có quan điểm vững chắc đối với vấn đề đặt ra.
Trong cuộc đấu tranh tuyên truyền với kẻ thù chính trị, trước hết cần phải xác định tâm thế mà chúng hình thành đối với các vấn đề đặt ra ở mọi người và sau đó loại trừ sự ảnh hưởng của chúng bằng việc hình thành các tâm thế mục tiêu.
Trong điều kiện hiện nay, khi hoạt động tuyên truyền quảng cáo đóng vai trò rất quan trọng trong việc trợ giúp con người hình thành thái độ đúng đối với hiện thực khách quan. Thực tế khách quan luôn luôn thay đổi với sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ. Vì thế hoạt động này phải được tiến hành tức thì, nhanh chóng và cương quyết. Hiệu quả của hoạt động tuyên truyền, quảng cáo phụ thuộc rất nhiều vào việc thực hiện nguyên tắc này.

3. Nguyên tắc sử dụng các sự kiện thời sự.

Trong tuyên truyền quảng cáo, cần phải sử dụng càng nhiều các sự kiện nóng hổi (cấp thiết) càng tốt. Thường các sự kiện này rất dễ lôi cuốn chú ý của người xem và dễ dàng được lưu giữ trong trí nhớ bởi tính mới lạ, nóng hổi và cấp thiết của chúng. Những sự kiện đang xảy ra trong và ngoài nước về chính trị, xã hội, khoa học và công nghệ, sản xuất và tiêu dùng…luôn được các nhóm lớn xã hội quan tâm và chú ý, và ảnh hưởng rất lớn tới niềm tin và quan điểm của họ.
Trên thế giới luôn quá tải thông tin đối với con người thì tuyên truyền và quảng cáo cần phải tránh xa được các thông tin quan trọng mà mọi người cần phải hiểu và nhận thức được. Quan điểm con người đối với một vấn đề nào đó có thể được hình thành dựa trên tư liệu lịch sử hoặc tư liệu thời sự, nhưng nếu sử dụng kết hợp được cả 2 loại tư liệu trên thì việc hình thành quan điểm tốt hơn. Ví dụ: Khi nói về đường lối chính trị của chính quyền Ixraen thì tốt nhất nên sử dụng các tư liệu gắn liền với các sự kiện sau chiến tranh thế giới thứ 2, nhưng tốt nhất nên kết hợp với các sự kiện xảy ra gần đây nhất giữa Ixraen và Palestine. Cách thứ 2 là sử dụng các thông tin thời sự đang xảy ra và được mọi người quan tâm nhất. Cách tuyên truyền và quảng cáo có hiệu quả nhất là căn cứ vào mục đích cụ thể mà sử dụng các sự kiện thời sự một cách hợp lý.
Sử dụng các sự kiện thời sự trong tuyên truyền, quảng cáo còn có hiệu quả tâm lý khác nhau là tăng cường khả năng đánh giá tính trung thực của thông tin quảng cáo. Nếu con người đã trải qua một sự kiện nào đó thì họ dễn tin vào sự kiện tương tự trong tuyên truyền, quảng cáo. Ví dụ: Dựa trên những lời nói của thủ tướng Ixraen Sharon và các tư liệu trên phát thanh, truyền hình thì mọi người có thể tin rằng nhà nước đó đang tiến hành đường lối chính trị xâm lược ở Trung Đông. Nếu cội nguồn của tuyên truyền quảng cáo được mọi người tin tưởng thì họ dễ tin vào thông tin tuyên truyền quảng cáo hơn. Cội nguồn thông tin càng cuốn hút bao nhiêu thì mọi người càng tin tưởng hơn bấy nhiêu, và tri giác nội dung thông điệp quảng cáo tuyên truyền càng đầy đủ hơn tác động của chúng cũng lớn hơn.
Nguyên tắc sử dụng các sự kiện thời sự trong tuyên truyền quảng cáo có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Việc thực hiện nguyên tắc này phụ thuộc rất nhiều vào phong cách làm việc của người tuyên truyền quảng cáo viên, vào sáng kiến và tính nhanh nhẹn của họ. Sử dụng các tư liệu liên quan tới các sự kiện thời sự trong hoạt động tuyên truyền, quảng cáo sẽ làm tăng sự lôi cuốn và hiệu quả tác động của nó.

4. Nguyên tắc giảng giải phù hợp các sự kiện.

Trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội hiện nay, các sự kiện phát triển rất nhanh, vì vậy nhiệm vụ tuyên truyền và quảng cáo rất quan trọng. Các sự kiện trên có thể xảy ra theo các mức độ, ý nghĩa khác nhau và ở các vị trí khác nhau. Vì vậy cần phải sắp xếp và hệ thống hoá các sự kiện đó và chỉ ra các mối quan hệ qua lại giữa chúng. Cần phải giải thích một cách phù hợp các sự kiện được sử dụng trong tuyên truyền, quảng cáo dựa trên các quy luật tri giác thông tin.
Con người không phải luôn phân tích các sự kiện một cách chi tiết, tỉ mỉ và nhìn thấy cái nền chung của các sự kiện, các mối liên hệ của chúng với các sự kiện khác và kiến thức để giải thích đúng sự kiện. Phần lớn mọi người lĩnh hội các sự kiện được phân tích và giải thích trong tuyên truyền, quảng cáo một cách thụ động.
Giảng giải các sự kiện trước hết là giải thích ý nghĩa chung của nó trong ngữ cảnh xã hội và sau đó đưa ra một số kết luận cụ thể. Giảng giải sự kiện cần phải tuân thủ các mục đích hình thành các quan điểm và định hướng tư tưởng của họ. Trong tuyên truyền quảng cáo cần phải phân tích các sự kiện một cách rõ ràng cụ thể và đánh giá nó.
Các sự kiện cụ thể được giải thích khác nhau và đưa ra các kết luận khác nhau. Nhiệm vụ của tuyên truyền, quảng cáo là giải thích đúng các sự kiện cho mọi người phù hợp với các mục tiêu đặt ra. Ý nghĩa tâm lý ở đây là ở chỗ khi giải thích đúng sự kiện thì làm cho mọi người dễ hiểu và hình thành các quan điểm đúng với các vấn đề đặt ra.

Thứ Năm, 14 tháng 3, 2013

Marketing trực tiếp (Direct Marketing)


Marketing trực tiếp (Direct Marketing)

Marketing trực tiếp (Direct Marketing) là việc sử  dụng điện thoại, thư  điện tử  và những công cụ tiếp xúc khác (không phải là người) để giao tiếp và dẫn dụ một đáp ứng từ  những khách hàng riêng biệt hoặc tiềm năng.
Hầu hết các công ty chủ yếu  dựa vào quảng cáo, khuyến mãi và bán hàng cá nhân. Họ sử  dụng quảng cáo, quan hệ công chúng để tạo nhận thức, quan tâm và sự  ưa thích, khuyến mãi để kích thích mua và bán hàng cá nhân để tiếp cận bán. Marketing trực tiếp là để dẫn đến bán hàng trực tiếp không qua trung gian.
1. Lợi ích của Marketing trực tiếp (direct marketing)
Hiện nay, do sự phát triển của các phương tiện thông tin liên lạc, các doanh nghiệp có thể sử  dụng nhiều cách thức để giao dịch trực tiếp với khách hàng. Các nhà sản xuất, nhà bán lẻ, công ty dịch vụ, công ty bán hàng qua catalog, và cả các tổ chức phi lợi nhuận đều sử  dụng Marketing trực tiếp (Direct Marketing).
Marketing trực tiếp mang đến nhiều lợi ích cho người tiêu thụ. Những người đặt hàng qua kênh thư  điện tử  cho rằng mua hàng qua thư  điện tử thì vui, tiện lợi, và không bị quấy rối (phiền nhiễu). Cách thức này tiết kiệm thời gian. Họ có thể lựa chọn tại nhà qua những catalog giới thiệu về hàng hóa và những cách sống mới. Họ có thể nhận quà mà không cần rời nhà. Những khách hàng công nghiệp cũng có nhiều thuận lợi. Họ có thể hiểu biết nhiều sản phẩm và dịch vụ mà không cần tốn thời gian gặp nhân viên bán hàng.
Marketing trực tiếp đã cung cấp lợi ích cho người bán:
  • Cách thức này có thể lựa chọn nhiều khách hàng tiềm năng tốt hơn.
  • Thông điệp bán được cá nhân hóa và khách hàng hóa.
  • Marketing trực tiếp có thể xây dựng những quan hệ liên tục với mỗi khách hàng.
  • Có thể đến với khách hàng tiếm năng vào những thời điểm thích hợp và được tiếp nhận nhiều hơn.
  • Qua Marketing trực tiếp có thể thử  nghiệm những thay đổi về cách quảng cáo, tiêu đề, giá, lợi ích,…
  • Đối thủ cạnh tranh không xem được những chiến lược của công ty dành riêng cho khách hàng.
  • Đánh giá được hiệu quả vì có thể đo lường phản ứng của khách hàng.
2. Mục tiêu của Marketing trực tiếp (Direct Marketing)
Mục tiêu của Marketing trực tiếp (Direct Marketing) muốn đạt được là làm khách hàng tiềm năng mua ngay. Sự  thành công của một chiến dịch thể hiện qua tỉ lệ đáp ứng (response rate).
Ngoài ra, Marketing trực tiếp (Direct Marketing) còn có những mục tiêu sau:
  • Tác động đến nhận thức và dự định mua sau đó của khách hàng.
  • Tạo cơ hội cho nhân viên bán hàng.
  • Gữi những thông điệp nhấn mạnh đến hình ảnh và sự ưa thích công ty.
  • Thông tin và hướng dẫn khách hàng để chuẩn bị cho lần mua sau.
3. Một số hình thức của Marketing trực tiếp (Direct Marketing):
  • Marketing qua catalog (Catalog marketing): nhiều công ty dùng hình thức bán hàng qua thư điện tử  sau khi họ phát hành ra catalog. Nội dung của Catalog có thể bổ sung thông tin chi tiết về đặc trưng của Catalog, về sản phẩm, bộ sưu tập hàng mẫu, số hotline để giải đáp thắc mắc, quà tặng, giảm giá…
  • Marketing qua thư trực tiếp (Direct_Mail Marketing): trong đó có thư, mẫu quảng cáo nhỏ, phim, số điện thoại miễn phí…
  • Marketing tư xa qua điện thoại (TeleMarketing): là một công cụ quan trọng trong Marketing trực tiếp (direct marketing) và đang được sử dụng ngày càng nhiều. Khách hàng dùng điện thoại và gọi số điên thoại miễn phí để đặt mua hàng.
  • Marketing trực tiếp trên các kênh truyền hình, truyền thanh, báo chí và tạp chí.
  • Marketing tận nhà (Door to Door Leaflet Marketing) đây là hình thức Marketing được sử dụng nhiều trong ngành thực phẩm tiêu dùng (Fast Food Industries). Hình thức này tập trung hoàn toàn theo vùng.
  • Quảng cáo có hồi đáp (Direct response television marketing) có hai hình là thức hợp đồng dài hạn (long form) và hợp đồng ngắn hạn (short form) Long form là hình thức sử dụng một khoản thời gian dài (khoản 30 phút) để mô tả sản phẩm thật chi tiết và short form sử dụng khoản thời gian quảng cáo ngắn (30 giây hay 1 phút) để hỏi những phản hồi của khách hàng tức khắc bằng cách gọi điện thoại hiện trên màn hình hoặc vào Website.
  • Phiếu thưởng hiện vật (Couponing) là hình thức sử dụng các pương tiện truyền thông được in ra để lấy thông tin phản hồi từ người đọc bằng những phiếu giảm giá cắt ra để đổi lấy tiền chiết khấu
  • Bán hàng trực tiếp (Direct selling) là hình thức bán hàng đối mặt (Face to face) với khách hàng thông qua các nhân viên bán hàng.
4. Các yếu tố quyết định sự thành công của marketing trực tiếp (Direct Marketing):
Trong tiếp thị kiểu tuyền thống, ta thường nói đến Marketing hỗn hợp bao gồm 4P đó là: sản phẩm (Product), giá cả (Price), phân phối (Place) và xúc tiến (Promotion). Đối với tiếp thị trực tiếp, tương tự sẽ có 6 yếu tố quan trọng sau:
Cơ sở dữ liệu (Database)
Điều cần nhớ đầu tiên là cơ sở dữ liệu khách hàng phải dựa trên cơ sở “con người” chứ không phải trên cơ sở “công ty” hay là “thương vụ”. Phải lập dữ liệu trên cơ sở “con người” vì đó là đối tượng mà bạn “giao lưu”, “thuyết phục”, “lấy cảm tình”, xây dựng lòng trung thành…
Nói về “con người”, những thông tin bạn cần sẽ nằm trong 4 nhóm dưới đây:
  • Thông tin cá nhân: họ, tên, tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, số con, nghề nghiệp, chức vụ trong công ty.
  • Thông tin địa chỉ: số nhà, tên đường, quận, thành phố, địa chỉ công ty, số điện thoại, số fax, địa chỉ mail.
  •  Thông tin tài chính: mức thu nhập, khả năng thanh toán, số tài khoản, uy tín trong công việc trả tiền, số lần đặt hàng và số lần trả tiền mua hàng,…
  • Thông tin hoạt động: thói quen mua sắm, những lần tiếp xúc với bạn, các lần khiếu nại, các trường hợp khiếu nại đã được xử lý như thế nào,…
Lời chào hàng (Offer)
Là lời đề nghị bạn đưa ra đối với khách hàng tiềm năng. Lời chào hàng bao gồm chi tiết về sản phẩm hoặc loại dịch vụ, giá bán, các ưu đãi đặc biệt, những lợi ích mang lại cho người tiêu dùng,…Nói cách khác, chào hàng là nội dung chính của những gì bạn đề nghị và tin rằng nó đáp ứng được những gì khách hàng cần, khách hàng muốn. Ví dụ “cơ hội để du lịch 5 nước Châu Âu trong 15 ngày đêm chỉ với 2.000 USD”
Sáng tạo (Creative)
Nếu nói lời chào hàng là nội dung của những gì bạn đề nghị với khách hàng, thì sáng tạo (creative) là hình thức của lời chào hàng đó, nó bao gồm cách trình bày, hình ảnh, lời văn, kỹ thuật in ấn.
Phương tiện truyền thông (Media)
Nếu như trong Marketing truyền thống phương tiện truyền thông được dùng chủ yếu là báo chí, radio, TV thì trong tiếp thị trực tiếp thì phương tiện truyền thông chủ yếu được dùng là gửi thư trực tiếp, gọi điện thoại, và với công nghệ thông tin bây giờ thì còn có email, và internet…
Tổ chức thực hiện (Organizing)
Nói về tổ chức thực hiện là nói về các công việc phải làm, trình tự tiến hành và tính toán tiến độ thời gian sao cho mọi việc diễn ra êm xuôi, đúng kế hoạch. So với tiếp thị kiểu truyền thống thì người làm tiếp thị trực tiếp có phần thuận lợi hơn trong việc kiểm soát nội dung và thời gian: bạn muốn gửi 1 tờ hay 10 tờ, muốn gửi ngày đầu tháng hay cuối tháng cũng được, v.v… Điều này không dễ dàng khi bạn muốn  đăng trên báo hoặc TV, vì còn phụ thuộc lịch trình của tờ báo hoặc đài truyền hình.
Tổ chức thực hiện (Organizing)
Muốn làm tiếp thị trực tiếp thành công thì gửi đúng người là yếu tố quan trọng nhất, sau đó mức hấp dẫn của lời chào hàng đứng nhì, rồi mới đến sự sáng tạo và yếu tố thời gian. Mọi lời đề nghị hấp dẫn, trình bày độc đáo đều vô nghĩa nếu bạn gửi đến địa chỉ sai. Mọi ý tưởng Marketing tuyệt vời sẽ là vô nghĩa nếu không biến thành hành động, cho nên công việc tổ chức thực hiện là thiết yếu để đưa các chương trình tiếp thị trực tiếp đến thành công.
Dịch vụ khách hàng (Customer Service) và Call center 
Mọi nỗ lực, cố gắng của doanh nghiệp là để đạt mục tiêu cuối cùng là khách hàng đồng ý đặt hàng, bỏ tiền ra mua hàng hoá hoặc dịch vụ của doanh nghiệp. Nếu như lúc khách hàng gọi đến công ty bạn không có người bốc máy, hoặc cách trả lời không nhiệt tình, hoặc hàng hoá không còn đủ để giao, hoặc giao hàng chậm trễ, các thanh toán nhiêu khê phiền phức, thì công sức của bạn đã làm cho tiếp thị trực tiếp có thể đổ sông, đổ biển. Tất cả những điều vừa nêu nằm trong khái niệm gọi là “dịch vụ khách hàng”.
Để có thể phục vụ khách hàng tốt các công ty phải biết tiên liệu, dự kiến trước những trục trặc có thể xảy ra để có biện pháp phòng tránh trước. Địa chỉ có thể bị lỗi do đánh máy sai, đường dây điện thoại có thể bận, bao bì có thể bị rách làm thất thoát hàng hoá, tất cả những sơ suất đó đều có thể gây ra sự bực mình ở khách hàng, đặc biệt nếu đối tượng khách hàng là cao cấp hoặc hàng hoá là loại đắt tiền. Tiền bỏ ra để làm tốt dịch vụ khách hàng phải được xem là đầu ta chứ không phải là chi phí. Có thể nói chi tiêu cho dịch vụ khách hàng là đầu tư mang lại lợi ích lâu bền nhất cho mọi thương hiệu, mọi công ty.
Chính vì thế trong mỗi chương trình tiếp thị trực tiếp luôn luôn gắn liền với một số điện thoại. Chúng ta có thể gọi đó là đường dây nóng, đường dây tư vấn khách hàng, đường dây hỗ trợ, vv… Nếu công ty lớn như công ty bảo hiểm nhân thọ chẳng hạn, thì có thể có hàng chục, đến hàng trăm điện thoại viên, luôn luôn trực 24/24 để sẵn sàng giải đáp, hướng dẫn hoặc gọi đi để nhắc nhở chăm sóc. Hệ thống như vậy giới chuyên môn gọi là “Call center”.